Hội nghị toàn quốc ngành Kế hoạch và Đầu tư

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sáng ngày 04/7, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị ngành Kế hoạch và Đầu tư toàn quốc nhằm triển khai thực hiện Chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước 3 năm 2013-2015. Hội nghị vinh dự có sự tham dự và phát biểu chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh chủ trì Hội nghị.
Tham dự Hội nghị còn có đại diện lãnh đạo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Ủy ban Tài chính, Ngân sách Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lãnh đạo các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, lãnh đạo các tập đoàn, Tổng công ty 91, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cùng các cơ quan thông tấn báo chí.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Hội nghị tập trung vào 3 nội dung
quan trọng là đánh giá tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm và kế hoạch thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2012, khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, kế hoạch đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ và điều hành chương trình mục tiêu quốc gia.
Bộ trưởng nhấn mạnh, Hội nghị diễn ra trong bối cảnh cực kỳ đặc biệt của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính phủ đã tập trung tái cơ cấu nền kinh tế với 3 nội dung chính là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng; triển khai thực hiện Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Bộ trưởng hy vọng thông qua Hội nghị lần này sẽ thống nhất về cách làm, đảm bảo tốt nhất về cách thực hiện các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. 
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và kế hoạch thực hiện các chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2012
Thứ trưởng thường trực Cao Viết Sinh đã trình bày tóm tắt Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013; kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ và đổi mới quản lý và điều hành chương trình mục tiêu quốc gia. Thứ trưởng cho biết, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, tập trung vào các giải pháp: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh; nâng cao chất lượng nhân lực, đẩy nhanh ứng dụng khoa học và công nghệ; bảo
đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững…
Trong những tháng đầu năm 2012, mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng nhờ xác định đúng mục tiêu và chủ động triển khai tổ chức thực hiện, tích cực, có hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp, cùng với sự phấn đấu, nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả tích cực: Lạm phát kiềm chế ở mức thấp; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; sức mua của thị trường giảm; nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2011.   
Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường nhưng vẫn nhất quán trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh đang là nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ để bảo đảm thực hiện đạt mức cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã đề ra.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng giá giảm liên tục. So với tháng trước, chỉ số giá tháng 1 tăng 1%, tháng 2 tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16%, tháng 4 tăng 0,05%, tháng 5 tăng 0,18%, tháng 6 giảm (-0,26%). Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tăng 2,5% so với tháng 12/2011, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước; thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng giá tiêu dùng của nhiều năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách nhà nước đến hết ngày 15 tháng 6 năm 2012 ước đạt 316.828 tỷ đồng, bằng 42,8% dự toán, trong đó: thu nội địa ước đạt 41,1% dự toán, thu từ dầu thô đạt 60,1% dự toán; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 38,3% dự toán. Tổng chi ngân sách nhà nước đến hết ngày 15 tháng 6 năm 2012 ước đạt 376.831 tỷ đồng, bằng 41,7% dự toán.
Ước 6 tháng đầu năm 2012 xuất khẩu đạt 53,127 tỷ USD, tăng 22,2%, trong đó, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt 28,8 tỷ USD, tăng 41,5% so với cùng kỳ.
Ước nhập khẩu đạt 53,812 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 28 tỷ USD, tăng 26,1%; nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 25,8 tỷ USD, giảm 8,2%. Ước nhập siêu 6 tháng khoảng 685 triệu USD, bằng 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong 3 năm liên tục và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2012 của cả nước tăng 9,7 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 8,5 tỷ USD. Như vậy, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 1,2 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011.
Về đầu tư phát triển, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 6 tháng đạt khoảng 431,7 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 34,5% GDP, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước lũy kế từ đầu năm đến 15/6/2012 ước đạt 73,6 nghìn tỷ đồng, bằng 40,9% kế hoạch năm. Vốn tín dụng cho vay đầu tư trung và dài hạn của Nhà nước 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 10,8 nghìn tỷ đồng, bằng 46% kế hoạch năm.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng vốn đăng ký ước đạt khoảng 6,38 tỷ USD, bằng 72,3% so với cùng kỳ năm 2011(6 tháng năm 2011 đạt 8,83 tỷ USD) và chỉ bằng 60,9% so với cùng kỳ năm 2010 (6 tháng năm 2010 đạt 10,48 tỷ USD). Tuy vốn đăng ký giảm nhưng vốn thực hiện dự kiến vẫn đạt 5,4 tỷ USD, tăng gần 2% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng cùng kỳ năm 2010.
Vốn ODA, trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết với nhà trợ đạt 2.106,67 triệu USD (Trong đó: vốn vay là 2.100,94 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 5,73 triệu USD) so với cùng kỳ năm ngoái là 1.661,29 triệu USD. Vốn ODA giải ngân 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 1.750 triệu USD, bằng 73% so với cùng kỳ năm 2011; trong đó, vốn vay ước đạt 1.588 triệu USD, bằng 73,9%, viện trợ không hoàn lại ước đạt 162 triệu USD, bằng 64,8%.
Do phải tập trung thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2012 đạt thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm trước và thấp hơn so với kế hoạch đề ra, nhưng bắt đầu có xu hướng cải thiện hơn trong Quý II. Tính chung, tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 4,38%.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm vẫn còn một số tồn tại và hạn chế: Nền kinh tế vẫn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Chỉ số phát triển công nghiệp 6 tháng chỉ bằng 46% tốc độ tăng cùng kỳ năm 2011. Khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng do lãi suất còn cao và không đáp ứng được các điều kiện vay; chỉ số tồn kho giảm nhưng còn ở mức cao; số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng; thu ngân sách nhà nước đạt thấp, nhất là thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc, số lao động mất việc làm ở các trung tâm công nghiệp,... còn gặp nhiều khó khăn; các tệ nạn xã hội và trật tự an toàn xã hội còn bức xúc ở một số nơi.
Với những diễn biến về kinh tế thế giới và trong nước thời gian qua và triển vọng sắp tới, có thể thấy áp lực là rất lớn để có thể đạt được những mục tiêu Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ đã đề ra trong năm 2012.
Ước tính năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,3% so với năm 2011 (Kế hoạch 2012 là tăng 8,5-9%). Trong đó, công nghiệp khai thác mỏ tăng 0,2%; công nghiệp chế biến tăng 6,5%; sản xuất, phân phối điện, gas, nước tăng 15,2%. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng cuối năm tiếp tục có nhiều thuận lợi và khá ổn định. Ước giá trị sản xuất cả năm 2012 tăng khoảng 4,3-4,5% so cùng kỳ năm trước; trong đó nông nghiệp tăng khoảng 3,7%, lâm nghiệp tăng khoảng 5,82%, thuỷ sản tăng khoảng 5,75%. Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2012 ước đạt khoảng 6,1-6,5%.
Xuất khẩu năm 2012 ước đạt khoảng 109-110 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2011, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra; nhập khẩu đạt khoảng 115-116 tỷ USD, tăng 8%. Nhập siêu dự kiến là 6 tỷ USD, bằng 5,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu dịch vụ năm 2012 ước đạt 9,7 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2011. Nhập khẩu dịch vụ ước đạt 12 tỷ USD, tăng 6-7% so với năm 2011; thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ là 2,3 tỷ USD.
Với xu hướng phát triển các ngành, lĩnh vực như trên, tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng cuối năm có thể đạt cao hơn 6 tháng đầu năm 2012. Dự báo GDP cả năm tăng khoảng 5,4-5,7%, thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra (6-6,5%).
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng cuối năm có thể sẽ cao hơn so với đầu năm do chủ động thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhưng chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2012 sẽ được kiềm chế ở mức khoảng 7-8%.

 

Tóm lại, trong 6 tháng cuối năm 2012, với điều kiện thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu nêu trong Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 và Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ, dòng vốn tín dụng được khơi thông, khó khăn của doanh nghiệp về vốn, thị trường,... sẽ dần được tháo gỡ; tăng trưởng công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến sẽ được cải thiện; sản xuất nông nghiệp ổn định, các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển; việc làm và thu nhập của người dân sẽ được cải thiện, sức mua của người dân sẽ tăng lên. Các chỉ tiêu xã hội, môi trường sẽ có thể đạt mục tiêu đề ra cho năm 2012 mặc dù một số chỉ tiêu đòi hỏi sự phấn đấu cao là chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo và chỉ tiêu số lao động được tạo việc làm.
Một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2012 và năm 2013
Qua đánh giá tình hình và kết quả thực hiện những tháng đầu năm, trong những tháng cuối năm phải quyết tâm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2012, bao gồm: chủ động điều hành kiềm chế lạm phát ở mức khoảng 7-8% (mục tiêu Quốc hội đề ra là tăng dưới 10%), ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng ở mức hợp lý, phấn đấu đạt mức cận dưới của kế hoạch đề ra là khoảng 6% và bảo đảm thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội theo kế hoạch đã đề ra từ đầu năm.
Để đạt được các mục tiêu đó cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt và có hiệu quả các giải pháp, chính sách đề ra của Chính phủ. Từ đó, tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tăng sức mua, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa nhưng không làm bất ổn kinh tế vĩ mô và lạm phát cao trở lại. Rà soát các chính sách liên quan đến môi trường đầu tư để tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích sản xuất đối với các lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, các hoạt động dịch vụ, du lịch chất lượng cao. Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, nhất là các mặt hàng sản xuất từ nguyên liệu trong nước. Kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu. Kiểm soát chất lượng hàng nhập khẩu gắn với chống gian lận hàng hóa, hàng giả, hàng kém chất lượng. Triển khai các chương trình khuyến mại, kích thích tiêu thụ và tiêu dùng; phát triển thị trường trong nước, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng về nông thôn; hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho.
Chủ động điều hành kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thể hiện qua chính sách tiền tệ, tín dụng, chính sách tài khóa, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế. Đẩy nhanh việc thực hiện và giải ngân vốn đầu tư, nhất là đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA.
Bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an ninh quốc phòng, tăng cường phòng chống tham nhũng. Thực hiện các biện pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt với lao động mất việc làm từ các doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, nhất là ở khu vực công nghiệp tập trung, hộ gia đình thuộc diện giải tỏa, thu hồi đất sản xuất. Đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo, các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai; hỗ trợ kịp thời, không để xảy ra tình trạng người dân thiếu đói; tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả, đúng tiến độ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015.
Về xây dựng kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2013 – 2015, kế hoạch trái phiếu Chính phủ năm 2013, Chỉ thị số 19/CT-TTgđã nêu đầy đủ các nội dung và nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư 3 năm 2013 – 2015 nguyên tắc chủ yếu cần quán triệt một cách nghiêm túc trong xây dựng kế hoạch như góp phần thực hiện các mục tiêu và các định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 trong phạm vi cả nước, trong từng ngành, từng lĩnh vực và từng vùng, từng địa phương; gắn với thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Kế hoạch được xây dựng trên cơ sở cân đối giữa các mục tiêu, nhu cầu đầu tư với khả năng cân đối vốn đầu tư phát triển trong kế hoạch thu chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2015; khả năng cân đối các nguồn vốn khác của nhà nước.
Đầu tư ngân sách nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho các công trình, dự án đã được bố trí vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, đang triển khai trong các kế hoạch hàng năm để đảm bảo hoàn thành dứt điểm, đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả. Đối với các dự án đầu tư mới, phải cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ bố trí vốn khởi công mới các dự án thật sự cấp bách, cấp thiết khi xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách. Không bố trí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các dự án không thuộc nhiệm vụ chi đầu tư theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự thảo Quyết định thay thế Quyết định 135/2009/QĐ-TTg ngày 04/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; đồng thời dự thảo nội dung hướng dẫn xây dựng kế hoạch và lồng ghép Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2013-2015.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã trực tiếp thảo luận, đóng góp ý kiến về các vấn đề liên quan đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói chung và các địa phương nói riêng. Từ đó, đề ra các biện pháp để có sự thống nhất từ nhận thức đến hành động nhằm thực hiện tốt các chỉ tiêu đã đề ra./.

 

 

Nguồn: mpi.gov.vn; người đăng: PTP