Rất cần nâng chất lượng, hiệu quả đầu tư FDI

(SKHĐTBP) - 25 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước. Tuy nhiên, chất lượng đầu tư cần phải cải thiện đặc biệt là việc chuyển giao công nghệ và đóng góp nguồn thu vào ngân sách nhà nước còn chưa tương xứng.

 

 

Theo Bộ KHĐT, khu vực FDI phát triển năng động nhất với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước.
 
Động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP
 
Năm 1995, GDP của khu vực này tăng 14,98%, trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; năm 2000 con số tương ứng là 11,44% và 6,79%; năm 2005 là 13,22% và 8,44%; năm 2010 là 12% và 6,78%.
Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần, từ 2% năm 1992, lên 18,97%  năm 2011.
Tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ hơn qua việc bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội. Nếu giai đoạn 1991 – 2000, vốn FDI khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội, thì đến giai đoạn 2001 - 2011 là 69,47 tỷ USD, chiếm 22,75%.
Tỷ trọng khu vực FDI trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 - 2011 tăng 5,4%.
Về xuất khẩu, trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012.
FDI góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo và tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là sang Hoa Kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
FDI còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do doanh nghiệp trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Đặc biệt, đóng góp của FDI vào ngân sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực FDI (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách (18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô).
FDI còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH; tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị…
 
Những điểm “nghẽn” cần tháo gỡ
 
Tuy nhiên theo Bộ KHĐT, nhìn lại 25 năm qua, vẫn còn không ít những hạn chế trong lĩnh vực này. Cụ thể là mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn), chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng. Trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, chỉ 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực công nghệ.
Bộ KHĐT cho biết một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc phòng.  Còn có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách….
Hiệu quả tổng thể nguồn vốn FDI trong từng lĩnh vực đầu tư cụ thể cũng chưa cao, ví dụ trong công nghiệp - xây dựng, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông - lâm - ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt Nam có thế mạnh.
Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mô lớn chiếm tỷ trọng cao  song nhiều dự án  chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vốn vay trong nước. ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế.
FDI hiện tập trung chủ yếu tại những địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng/miền, không đạt được mục tiêu hướng đầu tư nước ngoài vào địa bàn khó khăn.
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện nước ta mới chỉ thu hút được trên 100/500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký (khoảng 47,2%), tỷ lệ việc làm mới và thu nhập ở khu vực FDI không tương xứng với tiềm năng.
Vì vậy, mặc dù là khu vực phát triển năng động và có đóng góp cho phát triển KT- XH nhưng chúng ta cần đặc biệt lưu ý cải thiện chất lượng đầu tư, trong đó có  việc chuyển giao công nghệ của các dự án FDI.
 
 Tính lũy kế đến ngày 31/12/2012, Việt Nam có 14.522 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 210,5 tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 50,3% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản (23,6%), dịch vụ lưu trú ăn uống (5%). Đến nay, đã có 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với tổng vốn đăng ký 28,6 tỷ USD, tiếp theo là Đài Loan (Trung Quốc), Singapore, Hàn Quốc.
 
 
Huy Thắng
Nguồn: chinhphu.vn